Ngày 28 tháng 6 năm 1954, quân đội Pháp thực hiện cuộc hành quân sau cùng tại Việt Nam, là rút khỏi mạn Nam đồng bằng Sông Hồng mà chẳng gặp vụ đụng độ nào. Nhiều binh lính của đội quân vũ trang Công giáo của các giáo xứ, giáo phận phản động như Bùi Chu, Cao Mại,… quẳng khí giới và trốn theo giám mục Phạm Ngọc Chi cùng với các linh mục và một toán giáo dân khá đông của ông. Giám mục Phát Diệm là Lê Hữu Từ thì nhảy lên chiếc canô cuối cùng của quân Pháp đang rời cảng, bỏ quân lính tại chỗ. Một vài tên thấy giám mục mình hành động hèn nhát như thế bèn nổi giận đến nỗi lấy lựu đạn ném theo ông ta. Các linh mục - đại úy và quân lính các giáo xứ vội vã bỏ chạy, kéo theo gia đình của mình đi di cư.
Một người Thiên Chúa giáo di cư từ miền Bắc nhận đồ dùng do Mỹ phân phát.
Các linh mục tìm cách chạy trốn, đem theo đoàn chiên, người muốn kẻ không, cũng phải theo. Trong lúc hoảng hốt, họ tìm cách tránh né một mật lệnh của Vatican đưa ra năm 1952 phòng trường hợp chính phủ Hồ Chi Minh chiến thắng. Quả thế, rút kinh nghiệm từ Trung Quốc: các giáo sĩ đã rút chạy theo quân đội Tưởng Giới Thạch, bỏ lại mấy triệu giáo dân không có linh mục, Rôma đã chỉ thị rằng nếu cộng sản thắng thì tất cả những người có trách nhiệm phải ở lại với con chiên, chỉ các chủng viện và ban giám đốc được ra đi mà thôi. Bởi vậy, để biện hộ cho việc chạy trốn, các giám mục và linh mục tìm cách biện minh rằng, họ phải rời bỏ vị trí của họ để đi theo coi sóc con chiên đã trốn khỏi vùng cộng sản, hầu bảo vệ đức tin của mình.
Nước Pháp xin Hoa Kỳ cung cấp cho máy bay và tàu thủy của hạm đội 7. Người Mỹ, trung thành với thuyết Domino, đã không chịu ký vào Hiệp định Geneve, sau khi đã đặt lên một người cầm đầu chính phủ Ngụy theo ý mình là Ngô Đình Diệm, tín đồ công giáo, được Hồng y Spellman, Tổng giám mục New York bảo trợ. Sau Hiệp định Geneve, họ lập ra tổ chức Hiệp hội Đông Nam Á (OTASE), một liên minh chống Cộng, gồm các cường quốc chính của phương Tây và một số nước chư hầu châu Á. Tại chỗ, quân Mỹ do trung tá G.Landsdale chỉ huy, nhộn nhịp làm công tác chiến tranh tâm lý chống Bắc Việt Nam, nhất là xúi giục dân chúng bỏ xứ đi vào Nam.
Trước tiên là chiến dịch tung tin đồn: Họ khéo léo tung ra câu chuyện một tiểu đoàn Cộng sản Trung Hoa tại Bắc Kỳ đã trả thù một làng Việt, phụ nữ bị hãm hiếp... điều đó làm cho người ta nhớ lại sự sách nhiễu của quân lính Tưởng Giới Thạch năm 1945 và như vậy làm cho người Việt càng lo sợ về một cuộc chiếm đóng của quân Tàu dưới chế độ Việt Minh (...). Mấy tuần sau, người ta thuật lại với nhau câu chuyện giật gân về những điều tàn ác mà các sư đoàn lính Trung Hoa làm tại vùng đất Việt Minh. Sau một cuộc điều tra, người ta mới biết rằng đó chỉ là chiến dịch tung tin đã cũ, được tô lại cho ra vẻ Việt Nam thôi.
Chiến tranh tâm lý tìm cách hạ uy tín chính phủ Hồ Chí Minh trước khi chính phủ này tiến vào Hà Nội. Một người Việt ái quốc (sic) và một đại úy Mỹ "đã đi rải các tập tài liệu có ký tên Việt Minh, chỉ vẽ cho dân chúng phải hành động những gì khi Việt Minh chiếm được vùng Hà Nội. Đầu tháng 10, các chỉ dẫn chủ yếu trong đó liên quan tới quyền tư hữu, việc đổi tiền và 3 ngày nghỉ việc dành cho thợ thuyền khi Cộng sản chiếm được chính quyền. Qua hôm sau, số người đăng ký xin vào Nam đã tăng lên gấp ba. Hai ngày sau, tiền Việt Minh chỉ còn 50% giá trị. Lợi dụng sự mê tín dị đoan, trước dịp Giáng sinh năm 1955, người Mỹ lại sử dụng một vũ khí khác. "Một người ái quốc mà chúng ta gọi là Triều, làm việc tại một sở in lịch bói toán, phổ biến rất rộng rãi, nhất là tại các tỉnh miền Bắc đang còn nằm trong tầm tay của ta. Người ta mời các thầy bói Việt Nam nổi tiếng đến, tiên đoán về những thất bại nghiêm trọng của một số cán bộ Việt Minh và về việc thống nhất tại miền Nam". Người ta không biết bộ Lịch đó gây ra những hậu quả to lớn chừng nào. Cũng có cả những tin đồn rằng quân Mỹ sẽ ném bom nguyên tử tiêu diệt miền Bắc.
Chẳng bao lâu, một Ủy ban mẫu quốc lo cho cuộc di cư được thành lập, với sự giúp đỡ của Mỹ. Cuộc "di tản" này đã được tính trước từ lâu, cả trước khi Hiệp định Geneve được ký kết. Theo một bức điện do hãng thông tấn AFP đánh đi ngày 30-6-1954, thì "trong một cuộc họp báo. Tổng thống Aixơnhao đã cho biết rằng, nếu có hiệp định đình chiến thì Mỹ sẽ tổ chức một cuộc di tản để đưa dân miền Bắc vào Nam". Vì mục đích của cuộc di cư trước tiên là chính trị, nhằm gây ra những nỗi bất bình của dân chúng đối với chính phủ Hồ Chí Minh, quân Mỹ đã tung ra hoạt động về hai mặt: một mặt, tổ chức phá hoại có hệ thống tại Hà Nội trước khi quân lính Pháp rút đi, chẳng hạn làm hỏng kho xe buýt, phá hư các máy móc và đặt mìn đánh sập Chùa Một Cột, ngôi chùa đầy giá trị lịch sử và tôn giáo có từ mấy trăm năm. Mặt khác, "vì những lý do nhân đạo", cung cấp hàng chục triệu đôla và cho 41 tàu của hạm đội 7 phục vụ cho việc di cư.
Nếu các hoạt động phá hoại của Pháp và Mỹ gây được ảnh hưởng lên toàn thể dân chúng người Việt, thì có những luận điệu tuyên truyền khác đóng một vai trò quyết định hơn nơi các cộng đồng người Công giáo.
Trước tiên, họ sử dụng Đức Mẹ Fatima, mà việc tôn sùng mấy năm trước đó đã được tăng cường, qua việc thành lập Đạo binh Đức Mẹ, Đạo binh Xanh, Hiệp hội Chiến sĩ Đức Mẹ. Tất nhiên Đức Mẹ được giao cho chức năng chính trị là để giải thoát những kẻ tôn sùng Ngài. Người ta đồn rằng Đức Mẹ hiện ra ở Ba Làng, Thanh Hóa, để ra lệnh cho giáo dân đi vào Nam, bởi vì Mẹ cũng bỏ miền Bắc Việt Nam. "Việc hiện ra" hình như đã được dàn dựng tài tình bởi một linh mục, ông đã mặc áo Đức Mẹ cho một thiếu niên và đã cho em đứng sau bàn thờ Đức Mẹ Fatima. Trước mấy cây nến lung linh, một vài nhà "đạo đức" coi đó là Đức Mẹ hiện ra, nói với họ một giọng dịu dàng nhưng minh bạch rằng, "phải lìa bỏ" đất Cộng sản bất cứ với giá nào, mà tìm lánh sang vùng đất tự do. Đức Mẹ sắp sửa bỏ miền Bắc. Từ miệng qua tai, tin đồn được loan ra như một vết dầu loang và được thêm thắt bằng những nét chấm phá mới, kèm theo những lời tiên tri mới, hoặc những điềm gở tiên báo tai ương sắp tới. Óc tưởng tượng của dân chúng lại bày ra những chuyện linh mục bị tàn sát, những mật lệnh của Hồ Chí Minh bảo phải tiêu diệt cho hết người Công giáo, hay là bắt họ phải bỏ đạo.
"Chạy trốn để cứu lấy mạng sống và cứu lấy đức tin". "Chúa Kitô đã đi vào Nam". "Đức Mẹ đã rời bỏ Bắc Việt". Những khẩu hiệu phi lý đó làm cho người Kitô hữu phương Tây phải cười, nhưng lại có tác dụng rất lớn nơi một cộng đồng Kitô hữu đã từng bị giam nhốt xưa nay trong sự ngu dốt và trong một kiểu tin đạo được gọi là thời trung cổ. Trong các ốc đảo khép kín đó của giáo dân, những gì gọi là “Bí mật của Đức Mẹ Fatima” đều được coi như là tín điều bắt buộc, trong khi nó chỉ dựa vào một mớ tài tài liệu tuyên truyền nhảm nhí. Nếu những năm 1949-1953, các linh mục đã có thể biến giáo dân hiền lành vô tội đó thành những tên sát nhân cuồng nhiệt, nhờ khẩu hiệu "tiêu diệt cộng sản để làm vinh danh Chúa", thì họ cũng chẳng khó khăn gì trong việc tạo ra cuộc "Xuất hành vĩ đại", năm 1953-1955.
Hiển nhiên, người nông dân Việt Nam sống gắn bó với đất đai của tổ tiên, với mái nhà, với mảnh vườn, với nhà thờ họ và làng xóm hơn nông dân các nước khác. Nhưng họ lại dám từ bỏ tất cả mọi sự để bảo vệ đức tin, nhất là khi các cha xứ của họ lại đảm bảo với họ rằng, tại miền Nam Việt Nam có một vị thủ tướng Công giáo đang chờ đón họ và sẽ cấp cho họ những vùng đất phì nhiêu để làm ăn. Và khối dân chúng đó một khi đã bước chân ra đi, thì không gì có thể ngăn họ lại được. Thế là với những áp lực đủ kiểu cách, nhờ một lối tuyên truyền xảo trá, tạo ra một cơn hốt hoảng tinh thần nơi dân chúng Công giáo, người ta đã thành công đưa vào Nam hàng trăm ngàn nông dân, bởi vì khối di cư Công giáo sẽ là một lực lượng chính trị to lớn cho chính quyền Ngô Đình Diệm.
Nguồn: “Thập giá và lưỡi gươm” của Linh mục Trần Tam Tỉnh.
Nhận xét
Đăng nhận xét