Việt Nam, con cháu Lạc Hồng,
Phải học thuộc lòng, trang sử đã qua.
Nhớ công lao của Ông Cha,
Đổ bao xương máu, cho ta yên bình.
.
Thắng mười bốn (14) cuộc trường chinh,
Giữ được toàn vẹn, nước mình hôm nay.
Mỗi tấc đất đã ngấm đầy:
Máu và nước mắt, bao ngày con ơi!
.
Hôm nay, nhắc mười bốn (14) thời;
Giặc Phương Bắc, đã nối đời đánh ta.
Từ bốn ngàn năm rất xa,
Đến Bãi Tư Chính hôm qua, rất gần.
.
MỘT LÀ: Quân giặc Nhà Ân,
Tràn sang cướp bóc, bắt dân, xây đồn.
Khắp kinh thành, đến xóm thôn
Tiếng kêu thấu đất, oan hồn lạc bay.
.
Vua sai Sứ đi bao ngày
Tìm người tài giỏi, về ngay kinh thành.
Trao ngựa sắt, kiếm một thanh;
Chàng trai Phù Đổng, hoá thành Thiên Vương.
.
Thánh Gióng nhận lệnh, lên đường,
Dẫn quân thẳng đến chiến trường, xông pha.
Sau trận giao tranh với ta
Ân Vương đã chết, thành ma cửu tuyền.
.
Đó là năm trước công nguyên
Một-Hai-Một-Tám (-1218) lưu truyền sử xanh.
***
HAI LÀ: Trong cuộc chiến tranh,
Nhà Tần hung hãn, cũng đành chịu thua.
Vua Tần đâu phải loại vừa !
Ôm hết Bắc quốc, vẫn chưa hài lòng.
.
Trung Nguyên vừa mới dẹp xong,
Lại giục Nam tiến, xuôi dòng Trường Giang.
Xâm chiếm Bách Việt, phía Nam,
An Dương Vương, đã đánh tan giặc Tần.
.
Đại Việt thắng thêm một lần,
Năm hai mười bốn (-214), cũng gần Công nguyên.
***
BA LÀ : Giặc Hán đảo điên
Chiếm Phương Nam, muốn đánh liền, rút nhanh.
May thay, Trời giúp dân lành;
Giặc bị dịch bệnh, hoành hành khắp nơi.
.
Quân xâm lược, trái ý Trời;
Không quen thời tiết, thổ ngơi. Chết nhiều;
Chu Táo hoảng loạn liêu xiêu;
Năm một tám một (-181), phải liều lui binh.
.
Nam Việt trở lại hoà bình,
Đất sinh cây trái, dân tình yên vui.
***
TƯ LÀ : Vào năm bốn mươi (40),
Hai Bà Trưng, gốc là người Mê Linh ;
Đứng lên, dấy nghĩa khởi binh,
Đánh tan Đông Hán. Tự mình lên ngôi;
.
Giặc Phương Bắc quét sạch rồi,
Ba năm gánh vác mệnh Trời với dân.
Đến khi Mã Viện dồn quân;
Sông Hát, tuẫn tiết, gửi thân về Trời.
***
NĂM LÀ: Giao Châu, một thời,
Có quan Lý Bí, gốc người Long Hưng (Thái Bình)
Dẹp giặc Lương, thắng lẫy lừng;
Năm trăm bốn mốt (541), tưng bừng cờ hoa.
.
Lên ngôi vua, lấy hiệu là:
Nam Việt Đế. Lập nước nhà: Vạn Xuân
Tồn tại được đến bẩy năm,
Lý Nam Đế, của Việt Nam - sử vàng
***
SÁU LÀ: Trên Bạch Đằng Giang
Năm chín ba tám (938), tiếng vang nức lòng.
Ngô Quyền cắm cọc giữa sông;
Cho thuyền Nam Hán, chìm không lối về.
.
Lưu Hoằng Tháo, thua ê chề;
Tướng giặc chết, lính khó bề thoát thân.
Ngô Quyền thắng trận thu quân;
Tái lập đất nước, toàn dân vui vầy.
.
Không còn Bắc thuộc. Từ đây:
Đại Việt độc lập. Đất này bình an.
***
BẨY LÀ: Vua Đinh Tiên Hoàng
Cùng con, bị giết, ngai vàng lung lay.
Đinh Toàn, sáu tuổi lên thay.
Giặc Tống đã kéo quân ngay, đánh tràn.
.
Thập đại tướng quân Lê Hoàn
Phó Vương, nhiếp chính, không cam đầu hàng.
Năm chín tám một (981), giặc sang,
Đã bị Lê Hoàn, chặn đánh tả tơi.
.
Ải Chi Lăng, chính là nơi.
Ghi dấu một thời, giặc Tống khốn nguy.
***
TÁM LÀ: Tướng Tống, Quách Quỳ
Một không bẩy sáu (1076) bị truy đến cùng.
Kéo ba mươi vạn quân hùng,
Vào sông Như Nguyệt, thuộc vùng Bắc Ninh.
.
Lý Thường Kiệt giỏi dùng binh;
Đánh cho quân giặc thất kinh, hết hồn.
Liên tiếp mấy trận thua luôn.
Hỏi Quách Quỳ, rút quân chuồn đi đâu?
***
CHÍN LÀ : Trận Đông Bộ Đầu ;
Giặc Mông chiếm Tầu, thành lập Nguyên Mông.
Vào năm thứ bẩy Nguyên Phong -
Một hai năm tám (1258), lại hòng chiếm ta.
.
Thế giặc mạnh như Thác Bà
Đại Việt bỡ ngỡ, thế là tạm thua.
Trần Thủ Độ, cũng không vừa ;
Lập mưu trả hận, giặc chưa kịp mừng.
.
Khí thế Đại Việt bừng bừng,
Giành được chiến thắng lẫy lừng Nguyên Mông.
Dấu ấn Vua Trần Thái Tông ;
Thắng trận lần một, ở Đông Bộ Đầu.
***
MƯỜI LÀ : Hai bẩy năm sau,
Một hai tám bốn (1284) quân Tầu lại sang.
Dẫn đầu : Thái tử Thoát Hoan
Quân năm mươi vạn (50) lính, quan, kiêu hùng.
.
Trần Quang Khải, giỏi lẫy lừng ;
Bắt giặc phải dừng ở Bến Chương Dương,
Tây Kết có Hưng Đạo Vương;
Giết Toa Đô, lại thẳng đường Bắc Giang.
.
Vạn Kiếp, quân giặc đầu hàng ;
Thoát Hoan chui ống, trốn sang nước Tầu.
Lần hai này giặc thua đau;
Vẫn nuôi ý chí lần sau đọ tài.
***
MƯỜI MỘT : Vào tháng mười hai
Nghìn hai tám bẩy (12/1287), cách vài năm thôi.
Đại quân Nguyên lại đến rồi.
Khí thế hùng hổ, gấp mười lần xưa.
.
Thoát Hoan sau mấy lần thua;
Quyết tâm trả hận, ganh đua trận này.
Năm mươi (50) vạn quân bủa vây,
Chia thành ba mũi, hẹn ngày hợp binh.
.
Bên phía Đại Việt quân mình,
Trần Hưng Đạo rất tài tình, khôn ngoan.
Tạo ra thế trận liên hoàn,
Tiến, lui, cốt để Thoát Hoan khó lường.
.
Đại quân Thoát Hoan hết lương,
Ra khỏi doanh trại, tìm đường cướp dân.
Lại gặp phục binh nhà Trần
Đánh cho tan nát, tinh thần hoang mang.
.
Trận chiến trên Bạch Đằng Giang,
Một hai tám tám (1288), giặc càng thất kinh.
Nghìn năm trang sử còn minh,
Đại vương Quốc Tuấn, dụng binh như thần.
.
Thế là sau cả ba (3) lần,
Nguyên Mông thua trận, rút quân quy hàng.
Lịch sử Đại Việt sang trang,
Giữ được bờ cõi, vững vàng ngàn thu.
***
MƯỜI HAI: Dấy nghĩa diệt thù;
Lam Sơn khởi nghiệp, chiến khu núi rừng;
Lê Lợi, áo vải, anh hùng;
Mười năm luyện tập, khổ cùng nghĩa quân.
.
Vượt bao vất vả khó khăn
Chiêu tập quan võ, quan văn, nhân tài.
Mười năm nếm mật nằm gai
Một bốn hai tám (1428) lên ngai, sử vàng.
.
Thắng quân Minh, tiếng còn vang,
Đuổi giặc về nước, xóm làng yên vui.
Từ nay nước độc lập rồi.
Vua Lê Thái Tổ, một thời hiển vinh.
.
Làm cho quân giặc Nhà Minh,
Mấy trăm năm, chẳng dám rình đánh ta.
Việt Nam thống nhất sơn hà,
Toàn vẹn lãnh thổ, nước nhà rạng danh.
***
MƯỜI BA : Quân giặc Mãn Thanh
Một bẩy tám tám(1788) chiếm Thành Thăng Long.
Theo lệnh của Vua Cao Tông,
Giúp Lê Chiêu Thống, nối dòng họ Lê.
.
Bèn đưa Chiêu Thống Trở về.
Thành Thăng Long, giặc bốn bề bủa vây.
Quang Trung lập tức đến ngay.
Hành quân thần tốc, định ngày vào Kinh.
.
Đại quân xuất hiện thình lình;
Giặc hai chín (29) vạn, thất kinh, trốn về.
Chiêu Thống theo giặc, cùng đi;
Sống bên Trung Quốc, đến khi qua đời.
.
Muôn đời, hậu thế chê cười,
Bán nước, theo giặc, mọi người đều khinh.
***
MƯỜI BỐN: Bành Trướng Bắc Kinh
Theo lệnh, của Đặng Tiểu Bình, đánh ta.
Một dải biên giới Việt – Hoa
Hoà bình, hữu nghị, như là môi - răng.
.
Thế mà, có ai ngờ rằng,
Tháng hai, bẩy chin (2/1979) đất bằng, ngả nghiêng.
Kể chi hàng xóm láng giềng;
Đem quân tàn phá, có kiềng ai đâu.
.
Trận đánh không kéo dài lâu;
Một tháng, giặc đã cúi đầu, lui binh.
Chúng giết bao nhiêu dân tình;
Tàn phá nhà cửa, nước mình lao đao.
.
Trên thế giới có nơi nào?
Đang thân thiện, lại xông vào giết nhau.
Đây là bài học rất đau;
Nghìn năm sử sách, mai sau vẫn còn.
.
Nhắc cho, thế hệ cháu con:
Muôn đời, Phương Bắc vẫn còn đánh ta.
Dân ta phải giữ nước ta;
Giữ máu xương, của Ông Cha ngàn đời.
Nhận xét
Đăng nhận xét