1.Hoàng Minh Đạo – Cha
đẻ của ngành tình báo Việt Nam
Ngày
25/10/1945, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái đã
tuyên bố thành lập Phòng Tình báo Bộ Tổng Tham mưu. Hoàng Minh Đạo được phân
công là Trưởng phòng.
Tên tuổi và
sự nghiệp của Đào Phúc Lộc với bí danh Hoàng Minh Đạo, Năm Thu gắn liền với sự
ra đời của ngành Tình báo quân sự. Ông chính là người đầu tiên xây dựng nền
móng cho sự thành lập của ngành. Ňgay khi Cách mạng tháng Tám thành công, Hoàng
Minh Đạo nhận lệnh về Hà Nội.
Ông đã từng
giữ chức ủy viên thường vụ Khu ủy Sài Gòn Gia Định; Bí thư kiêm Chính ủy Phân
khu 5; Bí thư Phân khu 1 Khu Sài Gòn Gia Định và Chính ủy lực lượng biệt động
Sài Gòn. Đồng thời, ông cũng là một trong những nhân vật chủ yếu sáng lập ra
Ban địch tình Xứ ủy và ngành Binh vận vào thời điểm gay go á.c liệt nhất của
cuộc chiến đấu chống xâɱ lượċ Mỹ (1954 – 1955), trở thành một trong những mũi
giáp công lợi hại của Cách mạng miền Nam.
Ông hy sinh
vào một ngày mùa đông năm 1969 vì trúng phục kích của kẻ địch bên dòng sông Vàm
Cỏ Đông. Vì lý do an ninh, tin ông hy sinh được giấu kín suốt một thời gian
dài, khiến cho gia đình, người thân của ông đau đáu tìm kiếm. Trong suốt 30 năm
đó, ông đã bị nỗi oan kẻ phản quốc.
Công lao của
vị tướng tài năng là điều không thể phủ nhận. Song, phải đến ngày 8/4/1998, tại
Hà Nội, Bộ Quốc phòng mới tổ chức lễ truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh và truy
tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân cho Liệt sĩ Đào Phúc Lộc.
2. Đinh Thị Vân – Người vẽ bản đồ phòng ngự Nam
vĩ tuyến 17
Đinh Thị Vân
là 1 trong những người có công rất lớn trong việc phát triển hệ thống tình báo
của Việt Nam.
Lưới tình
báo do bà xây dựng đã cung cấp cho quân ta nhiều tin tức có giá trị góp phần
vào chiến công chung của ngành tình báo, mặc dù bà chưa một ngày học qua nghiệp
vụ điệp viên. Một trong những thành tích đáng kể là điều tra tỉ mỉ hệ thống
phòng ngự của quân đội Sài Gòn ở Nam vĩ tuyến 17 trong giai đoạn 1959 – 1960.
Thời điểm này,
ta bắt đầu mở đường Trường Sơn vào Nam, rất cần những thông tin về sự bố phòng
của quân đội Sài Gòn ở nam vĩ tuyến 17. Ngoài ra, còn cần tìm hiểu xem đối
phương đã biết những gì về việc quân ta xuất hiện ở Hạ Lào. Nhiệm vụ đó được
cấp trên giao cho Đinh Thị Vân.
Ngoài vụ
trên, Đinh Thị Vân cùng với mạng lưới của mình còn lập nhiều chiến công khác.
Chẳng hạn thông tin kịp thời về việc Mỹ sẽ đổ quân vào Nam Việt Nam sau khi
chiến lược chiến tranh đặc biệt thất bại hay biết trước được kế hoạch của cuộc
hành quân Junction City (Gian-Xơn-Xi-Ty) giúp quân ta chủ động đối phó làm thất
bại âm mưu của chúng.
Không kể đến
bà còn là người đã dẫn dắt nhiều thế hệ tình báo cũng như lực lượng không quân
Việt Nam.
3.Vũ Ngọc Nhạ – Người xây dựng cụm tình báo chiến
lược A22
Vũ Ngọc Nhạ
(bí danh Hai Long) sinh năm 1928 tại xã Vũ Hội, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.
Trong kháng chiến chống thực dân Pɦáρ, ông tham gia chiến đấu chống Pɦáρ ở Hà
Nội (mùa Đông 1946). Ông chính thức kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm
1947.
Sau đó, ông
trở về Thái Bình làm công tác dân vận trong chính quyền kháng chiến địa phương.
Năm 1953, ông được tuyển chọn tham gia vào cơ quan tình báo quân sự. Năm 1954,
với vỏ bọc mới mà tổ chức tạo cho, ông đưa vợ con xuống tàu Pháp di cư vào Nam
bắt đầu giai đoạn hoạt động mới.
Ở miền nam,
ông đã xây dựng cụm tình báo chiến lược A22 với nhiều điệp viên “chui sâu, leo
cao” nắm giữ vị trí quan trọng trong chính quyền VNCH. Nhờ vậy, ông và đồng đội
đã cung cấp những thông tin, tài liệu quan trọng góp phần vào chiến thắng của
quân dân ta trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Tuy tổ chức
chặt chẽ, nhưng cụm A22 bị địch phát giác và bắt giam năm 1969. Chúng đã đày
ông cùng nhiều đồng chí khác ra Côn Đảo. Sau hiệp định Paris 1973, ông được
trao trả. Ông vẫn tiếp tục hoạt động tích cực cho tới ngày đất nước hoàn toàn
giải phóng (30/4/1975).
Năm 1988,
ông được Nhà nước phong hàm Thiếu tướng. Ngày 7/8/2002, Thiếu tướng Vũ Ngọc Nhạ
qua đờї ở TP HCM, hưởng thọ 75 tuổi. Với những chiến công xuất sắc, ông đã được
Đảng và Nhà nước phong tặng nhiều huân huy chương cao quý. Cụm A22 được tặng
danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
4. Phạm Ngọc Thảo – “Nhà tình báo cô độc”
Đại tá Phạm
Ngọc Thảo sinh năm 1922 tại Sài Gòn, nguyên quán ở tỉnh Bến Tre. Ông
xuất thân trong một gia đình điền chủ có quốc tịch Pháp. Tốt nghiệp
trung học Công giáo Taberd ở Sài Gòn và có theo học ňgành công chính.
Sau năm 1945
theo kháng chiến chống Pháp. Sau hiệp định Genève, ông dạy học ở Sài
Gòn, Vĩnh Long và nhờ Ngô Đình Thục giới thiệu với Tổng thống Diệm.
Giữ các
chức vụ trong chính quyền Sài Gòn: Tỉnh đoàn trưởng Bảo an Vĩnh Long,
Chỉ huy trưởng Bảo an Bình Dương, Tỉnh trưởng tỉnh Kiến Hòa (Bến
Tre).
Khác với Vũ
Ngọc Nhạ và Phạm Xuân Ẩn, Phạm Ngọc Thảo là nhà tình báo hoạt động đơn tuyến,
không hề có đồng đội trực tiếp hỗ trợ mà chỉ chịu sự chỉ đạo về chiến lược của
Bác Hồ và Lê Duẩn. Ông không làm công tác đưa tin đơn thuần mà lớn hơn là được
giao nhiệm vụ “thay đổi chế độ tại miền Nam” (tương tự như mục tiêu regime
change của Mỹ tại I-rắc, nhưng nếu như Mỹ phải dùng đến hàng chục vạn quân thì
ta chỉ dùng 1 mình Phạm Ngọc Thảo và ở chừng mực nào đấy đã thành công). Sự
nguy hiểm của Phạm Ngọc Thảo đối với tồn vong của chế độ miền Nam lý giải tại
sao chính quyền Thiệu – Kỳ phải quyết bằng mọi giá thủ tiêu ông.
Khác với Vũ
Ngọc Nhạ và Phạm Xuân Ẩn, Phạm Ngọc Thảo là người duy nhất có thể tác động trực
tiếp đến chính quyền Sài Gòn. Là sỹ quan cao cấp trong quân đội VNCH lại có lực
lượng trong tay, ông chính là người đã trực tiếp đạo diễn và tham gia chỉ đạo
hàng loạt vụ đảo chính làm rung chuyển nền chính trị miền Nam những năm 1964 –
1965, gây mất ổn định nghiêm trọng chế độ Sài Gòn, tạo điều kiện thuận lợi cho
cách mạng miền Nam. Nếu cuộc đảo chính với Lâm Văn Phát gạt Nguyễn Khánh năm
1964 thành công, Phạm Ngọc Thảo trở thành thủ tướng VNCH thì lịch sử có thể đã
có những thay đổi lớn.
Ông là một
con người cực kỳ dũng cảm và tài năng. Mỹ đã từng chọn ông để đào tạo trở thành
Tổng thống tương lai của VNCH, đến khi nguy hiểm đã cận kề dù đồng chí Võ Văn
Kiệt khuyên ông có thể ra căn cứ nhưng ông vẫn quyết tâm ở lại để tổ chức vụ
đảo chính cuối cùng. Việc lớn không thành, bị bắt và tra tấn dã man nhưng Phạm
Ngọc Thảo vẫn không để lộ tung tích của mình. Cho đến lúc hy sinh, không ai
biết ông là một chiến sỹ tình báo cộng sản.
5. Phạm Xuân Ẩn – “Ký giả số 1 Việt Nam”
Phạm Xuân Ẩn
(1927- 2006 ) tham gia hoạt động cách mạng từ đầu thập niên 1950.
Năm 1953,
ông được kết nạp Đảng và được giao nhiệm vụ hoạt động điệp báo. Nhằm tạo vỏ bọc
tốt hơn để có thể thâm nhập sâu hơn vào giới chức chính quyền và quân đội Sài
Gòn, năm 1957, ông được cấp trên bố trí sang Mỹ học ngành báo chí.
Năm 1959,
Phạm Xuân Ẩn về nước, làm việc cho hãng tin Reuters và sau đó là tạp chí Time,
New York Herald Tribune của Mỹ. Với kiến thức uyên bác, hiểu biết rộng, cương
trực và tài năng giao tiếp, ngoại giao khác biệt, độc đáo theo kiểu lãng tử,
hào hoa ňgang tàng, “chửї thề như bắp rang”, xuất hiện với phong cách thượng
lưu, thừa hưởng văn hóa được đào tạo chính quy từ Mỹ, ông đã thâm nhập và là
bạn tri kỷ với các tướng lĩnh, trùm an ninh mật vụ cả Mỹ và Sài Gòn, giới báo
chí cũng như các chính khách chóp bu của chính quyền Sài Gòn để khai thác thông
tin tuyệt mật mang tầm chiến lược cho cuộc đối đầu của Miền Bắc Việt Nam với Mỹ
và chính quyền Sài Gòn.
Ông có công
rất lớn trong việc bảo vệ những cán bộ Cộng sản tránh việc bị Mỹ phát hiện cũng
như cung cấp những tin tình báo quan trọng cho quân ta. Điểm khiến ông thật sự
khác biệt so với những tình báo khác là dù từng được mệnh danh là “Ký giả chống
cộng số 1 Việt Nam” nhưng thật sự hoàn toàn không có bài báo nào của ông mang
tư tưởng này và cũng không có bất kỳ bài báo nào chống Mỹ và làm tổn hại cho 2
tờ báo ňổi tiếng ông từng làm Time và New York Herald Tribune./.
Nhận xét
Đăng nhận xét