Từ Đại hội VI đến Đại hội XIII của Đảng: Ðánh giá tổng quát và bài học kinh nghiệm qua 35 năm đổi mới
35 năm đổi mới (1986 – 2021) là giai đoạn quan trọng của sự nghiệp phát triển đất nước, đánh dấu sự trưởng thành mọi mặt của Ðảng, Nhà nước và nhân dân, là sáng tạo có tính tất yếu, toàn diện để gạt bỏ, tháo gỡ những vướng mắc, giải phóng năng lực sản xuất, tạo động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước. Bởi đổi mới là công cuộc có tính tổng thể, được chuẩn bị bài bản, theo cách thức, với từng đường đi nước bước cụ thể, được cân nhắc chắc chắn, triển khai một cách sâu rộng và đồng bộ, cho nên 35 năm qua, công cuộc đổi mới đã thật sự gắn bó với vận mệnh dân tộc, vận mệnh đất nước, gắn bó với mỗi người Việt Nam, và được bạn bè quốc tế hết sức quan tâm.
Ðổi
mới để phát triển, song phải là phát triển trong thế ổn định, theo đúng định
hướng, con đường mà chúng ta đã chọn. Ðổi mới để thực hiện bước chuyển từ cơ
chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường do Nhà nước quản lý,
điều hành theo định hướng XHCN, khắc phục tình trạng thả nổi thị trường; phát
triển kinh tế nhưng phải đi đôi với thực hiện công bằng xã hội, khắc phục tình
trạng phân hóa giàu nghèo. Ðổi mới yêu cầu gắn với mở cửa, hội nhập, với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa để đất nước phát triển nhanh, bền vững;
xây dựng, tăng cường lực lượng sản xuất, củng cố và phát triển quan hệ sản xuất
phù hợp, từ đó nâng tầm đất nước lên trình độ mới, tầm cao mới.
Sau
35 năm, đất nước đã đạt được những kết quả thiết thực, mà trước hết là đổi mới
tư duy để khắc phục được nhận thức lệch lạc, nhất là bệnh giáo điều, chủ quan
duy ý chí, vì thế vai trò lãnh đạo của Ðảng càng được tăng cường, định hướng
XHCN được giữ vững, hình thành quan niệm mới về mục tiêu, bước đi, cách thức
phát triển đất nước và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ chế quản lý
kinh tế, quản lý xã hội, kinh tế thị trường theo định hướng XHCN từng bước hình
thành, phát triển. Công cuộc đổi mới đã giải phóng sức sản xuất, củng cố, tăng
cường quan hệ sản xuất mới, đưa đất nước ra khỏi tình trạng một nước có thu
nhập thấp; đời sống nhân dân cải thiện đáng kể, ổn định chính trị – xã hội được
bảo đảm, an ninh quốc phòng được củng cố vững chắc, quan hệ hợp tác quốc tế
ngày càng sâu rộng. Ðổi mới đã đưa nước ta từ chỗ thiếu thốn, có khi phải nhập
lương thực, nay đã thành nước xuất khẩu gạo đứng ở tốp đầu thế giới. Chưa bao
giờ nhịp độ phát triển và đổi thay từ nông thôn đến thành thị, từ miền núi đến
đồng bằng lại nhanh chóng, mạnh mẽ như hiện nay. Cũng chưa bao giờ phong cách
sống, làm việc của mọi gia đình và mọi người dân lại có nhiều nét mới mẻ, tươi
tắn như hôm nay. Ðổi mới giúp chúng ta vừa kế thừa và phát huy những thành quả
tốt đẹp đạt được trước đây, vừa có cách nghĩ khác trước, nghe khác trước, nhìn
khác trước, làm khác trước, phù hợp với trạng thái phát triển mới, vì thế, đã
đem đến một sức vóc mới cho đất nước, tiếp sức chúng ta đi thêm những bước dài
trên con đường đã chọn.
Qua
35 năm đổi mới, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội và tình trạng
kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; bộ mặt đất nước, đời
sống của nhân dân thật sự thay đổi; dân chủ XHCN được phát huy và mở rộng; đại
đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường. Công tác xây dựng Ðảng, xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hệ thống chính trị được đẩy mạnh; sức mạnh về
mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ và chế độ XHCN được giữ vững; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng đi
vào chiều sâu; vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao…
Các
thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để đất nước tiếp tục đổi mới, phát triển
trong những năm tới; đồng thời khẳng định con đường đi lên CNXH là phù hợp với
thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Cội nguồn của các
thành tựu đó là do Ðảng ta có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp lợi
ích, nguyện vọng của nhân dân, được nhân dân tích cực ủng hộ, thực hiện, được
bạn bè quốc tế ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ. Ðảng đã nhận thức, vận dụng, phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa, phát huy
truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm
quốc tế phù hợp với Việt Nam, từ đó giữ bản lĩnh chính trị, kiên định lý tưởng,
mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, đồng thời nhạy bén, sáng tạo, kịp thời đưa ra
các chủ trương, quyết sách phù hợp từng giai đoạn cách mạng, phù hợp tình hình
thế giới và trong nước. Ðó là cơ sở để năm 2020, với phương châm vì tính mạng
con người, không để ai bị bỏ lại phía sau, toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân đã nỗ
lực vượt qua đại dịch Covid-19, khắc phục hậu quả bão lụt ở các tỉnh miền
trung, giúp nhân dân sớm ổn định cuộc sống.
Song
bên cạnh những thành tựu, chúng ta còn có hạn chế, khuyết điểm. Cụ thể như:
Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ một số
vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng thực tiễn, cung cấp cơ sở
khoa học hoạch định đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Lý
luận về CNXH và con đường đi lên CNXH còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết
thực tiễn để tiếp tục làm rõ. Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng
tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động; kinh tế vĩ mô chưa thật
ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa cao. Chất lượng, hiệu quả, năng suất
lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển còn
thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc
nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận thức đầy
đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn một số nhân tố, nguy cơ gây mất ổn
định xã hội. Trên một số mặt, lĩnh vực, còn một bộ phận nhân dân chưa được thụ
hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới…
Từ
thành tựu, hạn chế, khuyết điểm đó, có thể đúc rút một số bài học:
1.
Quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và CNXH, vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác –
Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động của Ðảng, là cơ sở phương pháp luận quan trọng nhất để phân tích tình
hình, hoạch định, hoàn thiện đường lối; đồng thời kế thừa và phát huy truyền
thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc
tế phù hợp với Việt Nam. Xây dựng đất nước theo con đường XHCN là sự nghiệp khó
khăn, phức tạp, lâu dài, nhưng đó là con đường hợp quy luật để có một nước Việt
Nam phát triển bền vững. Và trong quá trình đổi mới, bên cạnh các cơ hội, có
thể xuất hiện vấn đề mới, khó khăn, thách thức mới, Ðảng, Nhà nước và nhân dân
cần phải chủ động, không ngừng sáng tạo để giải quyết và vượt qua.
2.
Ðổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân
dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức
sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân
tộc. Xa rời, đi ngược lại lợi ích của nhân dân, đổi mới sẽ thất bại. Những ý
kiến, nguyện vọng, sáng kiến của nhân dân nảy sinh từ thực tiễn là yếu tố quan
trọng góp phần hình thành đường lối đổi mới của Ðảng. Nhân dân làm nên các
thành tựu của đổi mới, đổi mới phải dựa vào nhân dân. Dân chủ XHCN là bản chất
của chế độ, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Do đó,
xây dựng, phát huy dân chủ XHCN phải bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân
để nhân dân thật sự là chủ thể tiến hành đổi mới và thụ hưởng thành quả của đổi
mới. Ðể phát huy dân chủ XHCN, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, cần
phòng, chống đặc quyền, đặc lợi, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”.
3.
Ðổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; phải tôn trọng quy luật
khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực
tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề
thực tiễn đặt ra. Thực tế cho thấy, phải đổi mới toàn diện, đồng bộ trên mọi
lĩnh vực đời sống, từ nhận thức, tư tưởng đến hoạt động thực tiễn, từ hoạt động
lãnh đạo của Ðảng và quản lý của Nhà nước đến hoạt động trong từng bộ phận của
hệ thống chính trị, từ hoạt động ở trung ương đến hoạt động của địa phương, cơ
sở. Trong quá trình đổi mới, phải tổ chức thực hiện quyết liệt với các bước đi,
hình thức, cách làm phù hợp, hiệu quả; không để xảy ra tình trạng nóng vội, chủ
quan, hấp tấp, vì sẽ gây mất ổn định, thậm chí rối loạn, tạo cơ hội cho các thế
lực thù địch chống phá. Ðồng thời phải chủ động, năng động, không ngừng sáng
tạo, khắc phục tình trạng bảo thủ, trì trệ, bỏ lỡ cơ hội phát triển. Phải tôn
trọng quy luật khách quan, coi sự phát triển của thực tiễn là yêu cầu, là cơ sở
để đổi mới tư duy lý luận, đường lối, chủ trương, cơ chế, chính sách. Mọi đường
lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Ðảng và Nhà nước đều phải xuất phát
từ thực tiễn. Ðể dân tin, dân ủng hộ, dân tích cực thực hiện đường lối đổi mới,
Ðảng, Nhà nước phải giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt
ra; kịp thời điều chỉnh, bổ sung các thể chế, thiết chế, cơ chế, chính sách
không còn phù hợp, cản trở phát triển.
4.
Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc; kiên định độc lập, tự chủ, chủ
động, tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi. Phải luôn
coi lợi ích quốc gia – dân tộc là tối thượng. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng
cần kiên định độc lập, tự chủ, và đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc
tế. Kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong
nước với sức mạnh quốc tế nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước
nhanh, bền vững. Trong đó, phát huy sức mạnh toàn dân tộc là cơ sở kết hợp sức
mạnh thời đại, làm cho sức mạnh toàn dân tộc mạnh hơn. Và quan hệ quốc tế dựa
trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi.
5.
Phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Ðảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến
lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định
đến công tác xây dựng Ðảng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo thành công sự nghiệp
đổi mới; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc,
các tổ chức chính trị – xã hội và cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ
mật thiết với nhân dân. Sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng là nhân tố quyết định
thành công của công cuộc đổi mới. Vì thế, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực
cầm quyền và sức chiến đấu của Ðảng; xây dựng Ðảng và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt. Ðảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự
đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu; đồng thời thường xuyên
kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, phát huy
vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong tập hợp mọi tầng lớp nhân
dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc để thực hiện thành công sự
nghiệp đổi mới.
Rõ
ràng sau 35 năm, chúng ta đã không chỉ đạt được thành tựu to lớn có ý nghĩa
lịch sử, mà còn tiếp tục đẩy mạnh và phát triển với các nguồn lực phong phú.
Hành trình đổi mới với sự hài hòa giữa ý Ðảng với lòng dân đã và đang kết hợp
cả ba yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Ðó là động lực lớn nhất, yếu tố cơ
bản nhất tạo nên thành công của sự nghiệp cao cả là xây dựng một Việt Nam dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên CNXH.
Nhận xét
Đăng nhận xét