Trong dòng chảy lịch sử đầy vẻ vang và
tự hào của dân tộc Việt Nam, phụ nữ luôn đóng một vai trò trọng yếu. Ở thời đại
nào, cũng có những người phụ nữ tài trí, bản lĩnh, kiên cường, luôn nêu cao
tinh thần và phát huy truyền thống “Anh hùng, bất khất, trung hậu, đảm đang”.
Tìm hiểu những câu chuyện về họ cũng là
cách chúng ta cùng ôn lại lịch sử hào hùng của dân tộc, của phụ nữ Việt Nam và
cùng nhau tiếp nối, phát huy truyền thống quý báu đó.
1) Hai bà Trưng Trắc và Trưng Nhị - Nữ
vương đầu tiên trong lịch sử dân tộc ta
Hai bà Trưng Trắc và Trưng Nhị (14 -
43), những người phụ nữ mạnh mẽ dám đứng lên dựng cờ khởi nghĩa chống lại nhà
Hán. Lập ra một quốc gia với kinh đô tại Mê Linh và tự phong là Nữ vương.
2) Nữ chiến sỹ cộng sản Việt Nam đầu
tiên.
Bà Nguyễn Thị Minh Khai (1910-1941). Bà
là một nữ chiến sĩ cộng sản tiền bối trên quê hương Xô viết, người đã làm rạng
danh truyền thống cách mạng của phụ nữ Việt Nam. Năm 1927, bà gia nhập Tân Việt
cách mạng Đảng. Năm 1929 thoát ly gia đình tham gia hoạt động cách mạng ở Trung
Hoa. Năm 1935 vào học trường Đại học Phương Đông tại Liên Xô cũ cùng với Lê Hồng
Phong là đại biểu chính thức của Đảng Cộng sản Đông Dương tham dự Đại hội VII
Quốc tế cộng sản. Năm 1937, bà về nước hoạt động. Sau khi Khởi nghĩa Nam kỳ thất
bại, bà bị giặc Pháp bắt năm 1940 và bị thực dân Pháp kết án tử hình và bị xử bắn
tại Ngã ba Giồng, Hóc Môn năm 1941.
3) Nữ anh hùng lực lượng vũ trang nhân
dân trẻ nhất.
Chị Võ Thị Sáu (1933 - 1952) là một nữ
du kích trong kháng chiến chống Pháp ở Việt Nam, người nhiều lần thực hiện các
cuộc mưu sát nhắm vào các sĩ quan Pháp và những tên phản quốc cộng tác đắc lực
với chính quyền thực dân Pháp tại miền Nam Việt Nam. Do bị chỉ điểm, chị bị
quân Pháp bắt và bị tòa án binh Quân đội Pháp xử tử hình khi chưa đến 18 tuổi.
Chị như một biểu tượng Liệt nữ Anh hùng tiêu biểu trong cuộc Kháng chiến chống
Pháp và được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1993
(ngành công an).
4) Nữ Anh hùng đầu tiên của Quân đội
nhân dân Việt Nam.
Anh hùng lực lượng vũ trang Nguyễn Thị
Chiên (1930 - 2016). Bà quê tại xã Tán Thuật, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
Bà là Trung tá quân đội nhân dân Việt Nam. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp,
bà đã xây dựng và chỉ huy đội nữ du kích Tán Thuật (Thái Bình). Đội đã hoạt động
hiệu quả, táo bạo dũng cảm, nổi tiếng với chiến tích “tay không bắt giặc”, bà
được vinh dự gặp Bác Hồ và được trao tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang
năm 1952 khi mới 22 tuổi.
5) Nữ tướng duy nhất của Việt Nam ở thể
kỷ XX.
Thiếu tướng Nguyễn Thị Định, hay còn được
gọi với cái tên trìu mến là “bà Ba Định”. Bà thật xứng đáng với 8 chữ vàng mà
Bác Hồ trao tặng phụ nữ Việt Nam “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.
Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Phó Tư lệnh giải phóng miền Nam là cô Nguyễn
Thị Định. Cả thế giới chỉ nước ta có vị tướng quân gái như vậy. Thật là vẻ vang
cho miền Nam, cho dân tộc ta”.
6) Chủ nhân của “Nụ cười chiến thắng”
trong cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Bà Võ Thị Thắng: Chiến sĩ biệt động Võ
Thị Thắng với “Nụ cười chiến thắng” nổi tiếng tại phiên tòa của Mỹ ngụy năm
1968. Trước 1975, bà là sinh viên Sài Gòn, tham gia đấu tranh biểu tình chống
chính quyền bị bắt và bị kết án 20 năm tù. Khi bị kết án, bà có nói một câu được
cho là rất nổi tiếng đó là "...tôi chỉ sợ chính quyền của các ông không tồn
tại nổi đến khi tôi mãn hạn tù".
7) Nữ hoàng duy nhất trong lịch sử dân
tộc Việt Nam đến nay.
Nữ hoàng đầu tiên và cũng là duy nhất
trong lịch sử vương triều phong kiến Việt Nam, Lý Chiêu Hoàng (Chiêu Thánh).
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Lý Chiêu Hoàng sinh năm Mậu Dần (1218), là con
gái vua Lý Huệ Tông và hoàng hậu Trần Thị Dung. Khi bà chào đời, nhà Lý
(1010-1225) đã vào thời kỳ suy tàn. Chiêu Hoàng lúc đó mới 7 tuổi, được sắc
phong làm hoàng hậu, gọi là Chiêu Thánh. Sau nhiều biến cố, bà bị giáng xuống
làm công chúa. Từ khi sinh ra cho đến khi từ biệt cõi đời, với bao biến cố đã
khiến bà trở thành một người có số phận lạ lùng nhất trong lịch sử phong kiến
Việt Nam với 7 lần ở những danh vị khác nhau: Công chúa triều Lý, Hoàng Thái tử
nhà Lý, Nữ Hoàng đế nhà Lý, Hoàng hậu nhà Trần, Công chúa nhà Trần, Sư cô (thời
Trần) và Phu nhân tướng quân nhà Trần.
Người phụ nữ duy nhất tham gia đàm phán
và ký kết Hiệp định Pari năm 1972.
Bà là Nguyễn Thị Bình - nguyên Phó Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Người được biết đến là một trong
những nhân vật chủ chốt trong Hội nghị Paris. Hội nghị Paris về Việt Nam
(1968-1973) được coi là một trong những cuộc thương thuyết kéo dài nhất trong lịch
sử thế giới. Khi đó, bà là trưởng phái đoàn Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng
hòa miền Nam Việt Nam tham gia Hội nghị bốn bên về hòa bình cho Việt Nam tại
Paris giai đoạn 1968-1973. Hiệp định Paris đã ghi lại những thắng lợi rất to lớn
của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Bà cũng là nữ Bộ trưởng Bộ Ngoại
giao đầu tiên của Việt Nam. Bà là người phụ nữ Việt Nam thứ hai giữ chức vụ phó
nguyên thủ và là người nữ Việt Nam đầu tiên giữ chức vụ Phó Chủ tịch nước.
9) Nữ chủ bút (nay gọi tổng biên tập
báo) đầu tiên ở Việt Nam.
Bà Sương Nguyệt Anh, tên thật là Nguyễn
Xuân Khuê (có tài liệu ghi là Nguyễn Ngọc Khuê), tục danh Năm Hạnh, thuở con
gái lấy hiệu là Nguyệt Anh. Bà sinh ngày 01/2/1864 tại làng An Bình Đông, nay
là xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Bà là con gái thứ năm của nhà thơ yêu
nước Nguyễn Đình Chiểu. Bà Sương Nguyệt Anh chính thức trở thành nữ chủ bút báo
đầu tiên trong lịch sử báo chí Việt Nam.
10) Nữ Tiến sỹ đầu tiên của Việt Nam.
Bà Nguyễn Thị Duệ (hay Nguyễn Thị Du;
ngoài ra, có người gọi bà tên Nguyễn Thị Ngọc Toàn, hiệu Diệu Huyền) là nữ Tiến
sĩ đầu tiên của Việt Nam. Hiện chỉ biết bà sống vào cuối thế kỉ 16, đầu thế kỉ
17, chưa rõ năm sinh và mất. Nguyễn Thị Duệ, quê huyện Chí Linh, tỉnh Hải
Dương. Là một người hiếu học, song luật lệ bấy giờ không cho phép con gái được
học hành thi cử, Nguyễn Thị Duệ phải giả trai để dự việc đèn sách. Khoa thi tiến
sĩ năm Giáp Ngọ (1594) bà mang tên giả là Nguyễn Du đi thi và đỗ đầu khi tuổi vừa
20...
11) Bà tổ nghề may.
Bà Nguyễn Thi Sen sinh ra và lớn lên ở
làng Trạch Xá, xã Hòa Lâm, huyện Ứng Hòa, trấn Sơn Tây (ngôi làng được Quý Minh
Đại Vương là thần tướng dưới thời Hùng Vương lập lên). Theo Đại Việt Sử Ký Toàn
Thư, Vua Đinh Tiên Hoàng lập 5 hoàng hậu là Đan Gia, Trinh Minh, Kiều Quốc, Cồ
Quốc và Ca Ông, trong đó tứ phi Hoàng Hậu Cồ Quốc chính là Thánh tổ nghề may
Nguyễn Thị Sen. Vào năm Kỷ Mão (979) Vua Đinh Tiên Hoàng bị gian thần sát hại.
Buồn chán trước cảnh triều đình rơi vào binh đao tranh quyền, đoạt vị, bà đã
đưa các con từ giã Hoàng cung trở về làng Trạch Xá quê hương. Tại đây, bà đã
mang nghề may trong cung truyền dạy cho dân làng và từ đó nghề may đã phát triển
đời này nối tiếp đời sau, đến nay đã được hơn ngàn năm. Bà mất vào ngày 12
tháng Chạp. Để con cháu muôn đời biết về công đức của tiền nhân, người dân làng
Trạch Xá đã lập đền thờ suy tôn bà là Đức Thánh Tổ nghề may và tổ chức lễ hội
giỗ tổ vào ngày 12 tháng Chạp âm lịch hàng năm.
12) Bà tổ nghề gốm Chu đậu.
Bà Bùi Thị Hý, quê tại huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Nổi danh từ
thế kỷ 15 khi đưa Gốm Chu đậu rạng danh khắp nơi trên Thế giới, bà Bùi Thị Hý,
bà tổ nghề Gốm Chu Đậu, cũng là nữ doanh nhân tài hoa đầu tiên của Việt Nam, đã
tạo ra những di sản vô cùng to lớn để thế hệ doanh nhân Việt ngày nay tiếp tục
phát triển dòng gốm cổ với hàng trăm năm lịch sử, “mang bản sắc Việt tỏa sáng
khắp năm châu”. Gốm Chu Đậu dưới bàn tay tài hoa của bà Bùi Thị Hý có những nét
đặc trưng riêng của Chu Đậu và cũng là những nét đặc sắc của người Việt thể hiện
ở màu men và họa tiết mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam.
13) Bà tổ nghệ thuật hát chèo tại Việt
Nam.
Bà Phạm Thị Trân sinh năm 926, mất năm
976 hiệu là Huyền Nữ. Bà là một nữ nghệ sĩ thời nhà Đinh trong lịch sử Việt
Nam. Bà là được tôn là bà tổ của nghệ thuật hát chèo. Cho đến nay, hát chèo vẫn
là một trong những loại hình nghệ thuật chiếm giữ một vị trí quan trọng trong đời
sống văn hóa người dân Việt Nam.
14) Bà tổ nghề dệt vải tại Việt Nam.
Bà Nguyễn Thị La, sống ở thế kỷ XII, dưới thời nhà Lý. Tương truyền,
bà có nhan sắc khuynh thành, giỏi nghề thêu dệt. Sau kết duyên cùng một người
thợ dệt lành nghề, sau đỗ đạt làm quan và cùng vợ mở phường thủ công ở đất làng
Nhược Công. Cuối thời nhà Lý, hai vợ chồng bà mất. Bà được phong là Thụ La Công
chúa, được tôn làm bà tổ nghề dệt vải ở kinh đô.
15) Người phụ nữ được mệnh danh là “Bà
chúa thơ Nôm”.
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương, bà sinh vào khoảng
cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
Bà là nữ sĩ tài hoa, nổi tiếng với nhiều sáng tác thơ Nôm trào phúng. Bà dược mệnh
danh là Bà chúa thơ Nôm không chỉ bởi số lượng tác phẩm mà còn vì nghệ thuật
điêu luyện với ý tưởng sâu sắc. Một nhà nghiên cứu đã nói về thơ bà “Thơ Nôm Hồ
Xuân Hương lừng lững biểu hiện một cách sinh động trực quan khả năng giàu có mà
hiểm hóc đến mức kỳ lạ của ngôn ngữ dân tộc”.
16) “Huyền thoại mẹ” trong cuộc đấu
tranh bảo vệ Tổ quốc.
Mẹ Việt Nam Anh hùng Nguyễn Thị Thứ (1904-2010), tại xã Điện Thắng,
huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ, Mẹ Nguyễn Thị Thứ có 9 người con ruột, một con rể và hai cháu ngoại lần lượt
hi sinh. Cuộc đời mẹ đã trở thành huyền thoại, thành tượng đài bất hủ của tinh
thần yêu nước, sự hy sinh vô bờ bến cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước. Mẹ Thứ được chọn làm nguyên mẫu cho công trình tượng đài Mẹ Việt
Nam anh hùng - một công trình văn hóa cấp quốc gia, ghi nhớ công ơn của các bà
mẹ Việt Nam anh hùng tại Núi Cấm (thôn Phú Thạnh, xã Tam Phú, TP Tam Kỳ, Quảng
Nam).
17) Nữ đại tá tình báo giỏi nhất trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
Đại tá, Anh hùng lực lượng vũ trang
Đinh Thị Vân (1916-1995), người tổ chức và điều hành mạng lưới tình báo tại Sài
Gòn trong kháng chiến chống Mỹ. Với tính cách thông minh, nhanh nhẹn, kiên
trung, xây dựng được mạng lưới tình báo vững chắc, bà đã cung cấp kịp thời cho
Trung ương Đảng nhiều tin tức về các cuộc càn quét của Mỹ ngụy vào đầu não
kháng chiến của ta ở miền Đông Nam bộ. Hệ thống tình báo của bà phục vụ đắc lực
cho các kế hoạch tấn công của quân đội ta từ Tết Mậu Thân 1968 đến khi miền Nam
được hoàn toàn giải phóng năm 1975.
18) Người phụ nữ vác đạn nặng nhất
trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước.
Anh hùng Ngô Thị Tuyển. Anh hùng Ngô Thị Tuyển sinh năm 1946 tại
Nam Ngạn, Hàm Rồng, Thanh Hóa. Bà là nữ dân quân mưu trí, dũng cảm. Ngày
04/4/1965, trong một tình thế cấp bách, cô gái trẻ Ngô Thị Tuyển quả quyết, nhờ
đồng đội nâng hai hòm đạn lên vai, rồi vác luôn chúng chạy băng qua hào sâu, dưới
mưa bom để tiếp đạn. Hồi ấy, bà mới 19 tuổi, cân nặng chỉ có 42 kg, bà đã vác 2
hòm đạn nặng 98kg vượt qua bờ đê chuyển ra sông phục vụ chiến đấu tại Hàm Rồng
Thanh Hóa. Với những thành tích xuất sắc trong chiến đấu, bà vinh dự được tặng
thưởng 2 Huân chương Chiến công hạng ba, được gặp Bác Hồ 3 lần và được chính
Bác tặng huy hiệu của Người, 6 lần được tặng bằng khen, giấy khen. Ngày
01/01/1967, Ngô Thị Tuyển được Nhà nước trao tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng
vũ trang nhân dân.
19) Người phụ nữ đầu tiên nhận Huân
chương Sao vàng.
Bà Nguyễn Thị Thập tên thật là Nguyễn
Thị Ngọc Tốt (1908-1996). Bà là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên được Nhà nước tặng
thưởng Huân chương Sao Vàng, huân chương cao quý nhất của Nhà nước CHXHCN Việt
Nam năm 1985. Bà cũng là người nữ đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của đất Tiền
Giang tham dự kỳ họp Quốc hội khóa I tại Hà Nội năm 1946. Bà có gần 20 năm đảm
trách vai trò Chủ tịch Hội Phụ nữ Việt Nam. Bà là Bà mẹ Việt Nam anh hùng và là
một huyền thoại của phụ nữ Việt Nam, phụ nữ miền Nam thành đồng Tổ quốc.
20) Nữ Giáo sư toán học đầu tiên của Việt
Nam.
GS.TS.NGND Hoàng Xuân Sính ở lĩnh vực
Toán Đại số. Bà sinh năm 1933 tại Hà Nội. Bà Hoàng Xuân Sính vừa là nữ tiến sĩ
vừa là nữ giáo sư toán học đầu tiên ở Việt Nam. Bà cũng là người phụ nữ nước
ngoài đầu tiên đến Paris bảo vệ thành công luận án tiến sĩ quốc gia về toán học.
Ngoài giảng dạy Toán Đại số ở Trường Đại học Sư phạm và biên soạn giáo trình đại
học, sách giáo khoa Toán học phổ thông, GS Hoàng Xuân Sính từng là chủ nhiệm bộ
môn đại số rồi làm trưởng khoa Toán - Tin học tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Bà là một trong những người sáng lập ra
trường Đại học Thăng Long, trường Đại học tư thục đầu tiên ở Việt Nam (1988).
Bà đã được chính phủ Pháp trao tặng "Huân chương Cành cọ Hàn lâm" vào
năm 2003 vì những đóng góp to lớn của cá nhân bà cho công cuộc phát triển và hợp
tác nghiên cứu khoa học giữa hai quốc gia Pháp - Việt. Bà cũng là người góp phần
quan trọng vào việc hình thành Giải thưởng Kovalevskaia trao tặng cho các nhà
khoa học nữ xuất sắc ở Việt Nam./.
Nhận xét
Đăng nhận xét