Cách đây 48 năm, 9 giờ 30 phút sáng
7/4/1975, Ðại tướng Võ Nguyên Giáp đã gửi Điện số 157-HÐKTK cho các đơn vị mệnh
lệnh: "Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng
giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng".
Mật lệnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp vừa
là mệnh lệnh, vừa là lời hịch cổ vũ tinh thần đối với cán bộ, chiến sỹ trên chiến
trường vào thời điểm vô cùng quan trọng của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.
Mệnh lệnh lịch sử
Thắng lợi hoàn toàn và trọn vẹn của cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 là một mốc son chói lọi trong lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tộc ta. Thắng lợi lịch sử ấy bắt nguồn từ đường lối
cách mạng, đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, tinh thần đoàn kết, chiến đấu anh dũng bất khuất của toàn quân, toàn dân,
gắn liền với sự lãnh đạo và điều hành trực tiếp của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung
ương, Bộ Tổng Tư lệnh trong quá trình kháng chiến.
Trong những ngày tháng lịch sử đó, Bộ Chính
trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh đã tập trung trí tuệ, tài năng ra những
quyết định, kế hoạch chiến lược, chiến dịch, những mệnh lệnh, chỉ thị cho quân
và dân cả nước biến các nghị quyết đúng đắn của Đảng thành sức mạnh chiến đấu
và chiến thắng trên các chiến trường.
Ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris về chấm
dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết. Tuy nhiên, Mỹ - ngụy
ra sức phá họai Hiệp định Paris, đẩy mạnh bình định lấn chiếm, tiếp tục thực hiện
chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Trước tình hình đó, tháng 3/1973, Quân ủy
Trung ương đã họp và xác định: trong khi địch dùng biện pháp quân sự để đánh
ta, ta cần kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, với pháp
lý của Hiệp định Paris, từng bước chuyển sang tiến công chủ yếu bằng chính trị
có lực lượng vũ trang làm hậu thuẫn, nhằm thực hiện ngừng bắn, lập lại hòa bình
trên thế có lợi cho ta.
Ngày 30/1/1974, Bộ Chính trị họp mở rộng,
bàn kế hoạch nắm bắt thời cơ, thúc đẩy phong trào cách mạng miền Nam.
Sáng 31/3/1975, Bộ Chính trị họp mở rộng
và nhận định: “Cách mạng nước ta đang phát triển sôi nổi nhất với nhịp độ một
ngày bằng 20 năm. Vì vậy Bộ Chính trị quyết định, nắm vững thời cơ chiến lược với
tư tưởng chỉ đạo thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, có quyết tâm lớn thực
hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là
trong tháng tư, không thể chậm”.
Trong hồi ký của mình, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp viết: “Ngay sau Hội nghị Bộ Chính trị, tôi suy nghĩ nhiều về trận
chiến đấu sẽ diễn ra trên chiến trường trọng điểm Sài Gòn - Gia Định. Sau khi
nghiên cứu, trao đổi với Phó Tổng Tham mưu trưởng Cao Văn Khánh và Cục trưởng Cục
Tác chiến Lê Hữu Đức, ngày 1/4, tôi gọi điện vào B2. Đúng như Bộ Chính trị nhận
định, chiến tranh cách mạng ở miền Nam đang bước vào giai đoạn phát triển nhảy
vọt. Hiện nay ta đã có đầy đủ lực lượng và khả năng để giành thắng lợi hoàn
toàn trong một thời gian ngắn hơn dự kiến rất nhiều. Vấn đề quyết định là phải
kịp nắm lấy thời cơ, tranh thủ vào trung tuần tháng 4 thì bắt đầu cuộc tấn công
quy mô lớn vào Sài Gòn. Làm được như vậy thì thuận lợi nhất, bảo đảm thắng lợi
giòn giã nhất. Bất ngờ hiện nay không còn ở phương hướng nữa. Địch biết nhất định
ta sẽ đánh vào Sài Gòn nhưng chúng cho rằng ta cần chuẩn bị một hai tháng. Vì vậy,
bất ngờ hiện nay chủ yểu là khâu thời gian. Một mặt cần cơ động lực lượng nhanh
chóng, thần tốc, mặt khác sử dụng ngay lực lượng hiện có để kịp thời hành động…”.
Trước thời khắc quyết định của dân tộc,
cuộc tiến quân lịch sử của Quang Trung - Nguyễn Huệ lại hiện về trong ký ức của
Đại tướng. Ngày 4/4, Đại tướng gửi điện cho cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 2 đang
hành quân: “… Các đồng chí lên đường làm nhiệm vụ rất vẻ vang. Cần hành động thần
tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”.
Ngày 6/4, điện của Quân ủy Trung ương gửi
Bộ Tư lệnh Đoàn 559 nêu rõ: “… Cần chú trọng coi công tác bảo đảm chi viện và bảo
đảm cơ động lực lượng ta vào B2 là công tác trung tâm số 1. Vì vậy, cần có kế
hoạch tổ chức thật tốt công tác này, nhất là bảo đảm việc hành quân của các đơn
vị, binh khí kỹ thuật và các nhu cầu đạn dược theo đúng thời gian đã định”.
Bức điện lúc 22 giờ ngày 6/4 của Quân ủy
Trung ương gửi đồng chí Đồng Sỹ Nguyên và Thường vụ Đảng ủy 559 nhấn mạnh: “…
Yêu cầu của mặt trận hết sức gấp, từng ngày, từng giờ. Thời gian lúc này là lực
lượng, là sức mạnh. Các đồng chí dùng mọi biện pháp tổ chức và đôn đốc các đơn
vị hành quân hết sức nhanh, chi viện hết sức gấp, hoàn thành xuất sắc chiến dịch
chi viện thần tốc này”.
Ngày 7/4/1975, tại Tổng hành dinh Sở Chỉ huy chiến dịch - Nhà D67,
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tự tay thảo Bức điện 157/ĐK gửi các cánh quân:
"1. Thần tốc, thần tốc hơn nữa,
táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng giờ từng phút, xốc tới mặt trận, giải
phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng.
2. Truyền đạt tức khắc đến đảng viên,
chiến sĩ".
Bên dưới ký một chữ Văn.
Bức điện lập tức được giao ban cơ yếu
mã hóa. Đồng chí Nguyễn Bá Líu - chiến sĩ báo vụ Lữ đoàn 25 là người trực tiếp
được truyền tải bức điện đó tới chỉ huy các cánh quân tham gia giải phóng miền
Nam.
Chỉ với 40 từ, vô cùng ngắn gọn nhưng Bản
Mệnh lệnh đã xác định rõ mục tiêu phải đạt được, đồng thời chỉ rõ phương châm
hành động để đạt được mục tiêu đó: Đã thần tốc rồi, cần thần tốc hơn nữa! Đã
táo bạo rồi cần táo bạn hơn!
Thần tốc giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước
Bức điện khẩn “Thần tốc, thần tốc hơn nữa...”
do tự tay Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung
ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, ký tên được Ban Cơ yếu lập tức truyền đi khắp
các mặt trận trên toàn miền Nam như một lời “hịch tướng sĩ”.
Mệnh lệnh đã truyền đạt quyết tâm cao
nhất của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương tới các cấp lãnh đạo và chỉ huy chiến
trường, tới mỗi đảng viên, chiến sĩ để chủ động sáng tạo, thừa thắng, xốc tới,
hướng mọi hành động theo phương châm thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng. Và
cả dân tộc đã ra quân với khí thế ấy.
Trong đêm 7/4, các cánh quân của ta đã
tăng tốc độ hành quân cả đêm và ngày đến vị trí tập kết chiến dịch đúng quy định.
Ngày 9/4, Quân đoàn 4 bắt đầu tiến công
địch trong thị xã Xuân Lộc; địch phản kích quyết liệt, buộc các đơn vị của ta
phải thay đổi chiến thuật, rút khỏi Xuân Lộc, đánh vòng ngoài, diệt địch ở Túc
Trưng, Kiệm Tân, theo đường 20 phát triển đánh địch ở ngã ba Dầu Giây, cắt đường
số 1 về Sài Gòn.
Ngày 14/4, cánh quân hướng Đông tiến
công vào tuyến phòng thủ Phan Rang đến ngày 16 chiếm thị xã Phan Rang và sân
bay Thành Sơn, diệt và bắt toàn bộ quân địch ở đây, giải phóng tỉnh Ninh Thuận.
Cũng trong ngày 14/4, Bộ Chính trị đặt
tên cho chiến dịch giải phóng Sài Gòn là Chiến dịch Hồ Chí Minh, do Đại tướng
Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh, đồng chí Phạm Hùng làm Chính ủy.
Ngày 19/4, Quân đoàn 2 giải phóng Phan
Thiết và tỉnh Bình Thuận, thần tốc tiến vào Long Khánh, phối hợp với Quân đoàn
4 giải phóng Xuân Lộc. Trên các hướng Bắc, Tây Bắc, Đông và Tây Nam, quân ta dồn
dập tiến công tiêu diệt các sư đoàn chủ lực địch phòng thủ vòng ngoài, áp sát lực
lượng vào vùng ven đô.
Ngày 22/4, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Thứ
nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, điện chỉ đạo Bộ Chỉ huy chiến dịch: “Thời
cơ quân sự và chính trị để mở cuộc tổng tiến công vào Sài Gòn đã chín muồi. Ta
cần tranh thủ từng ngày, kịp thời phát động tiến công địch trên các hướng,
không để chậm. Nếu để chậm thì không có lợi về quân sự chính trị. Kịp thời hành
động lúc này là bảo đảm chắc chắn nhất để giành thắng lợi hoàn toàn. Nắm vững
thời cơ lớn chúng ta nhất định toàn thắng”.
Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng
Sài Gòn - Gia Định trước ngày 30/4/1975.
5 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, Bộ Chỉ
huy Chiến dịch ra lệnh tổng công kích, đánh chiếm 5 mục tiêu then chốt: Sân bay
Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu, Dinh Độc Lập, Tổng nha cảnh sát đô thành và Biệt
khu thủ đô. Từ bốn hướng Đông, Bắc và Tây Bắc, Tây Nam, quân ta đồng loạt tiến
công vào Sài Gòn phối hợp với quần chúng nhân dân nổi dậy, đến 11 giờ 30 phút
ta làm chủ các mục tiêu và cắm cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng lên Dinh Độc Lập.
Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.
Cùng với cuộc tổng tiến công giải phóng
Sài Gòn - Gia Định, quân ta đánh chiếm, giải phóng các đảo và quần đảo ở ven biển
miền Trung và Trường Sa. Quân và dân các tỉnh miền Đông Nam bộ và Đồng bằng
sông Cửu Long tiến công, nổi dậy diệt và làm tan rã Quân đoàn 4 ngụy, giải
phóng các tỉnh Long An, Bình Dương, Tây Ninh, Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc Trăng, Rạch
Giá, Bạc Liêu, đảo Phú Quốc, Bà Rịa-Vũng Tàu.
Ngày 1/5, ta tiếp tục giải phóng các tỉnh
Mỹ Tho, Gò Công, Vĩnh Long, Chương Thiện, Cà Mau, Long Xuyên, Châu Đốc, Kiến Tường,
Sa Đéc, Côn Đảo.
Đến ngày 1/5/1975, toàn bộ các tỉnh,
thành phố trên đất liền và các đảo, quần đảo ở biển Đông trên toàn miền Nam Việt
Nam được giải phóng.
48 năm đã trôi qua kể từ đại thắng Mùa
Xuân năm 1975, nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, đã tiến những bước
dài trong công cuộc xây dựng đất nước. Song lời mệnh lệnh lịch sử “Thần tốc,
thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa…” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn
còn nguyên giá trị, mãi mãi là niềm tự hào và quyết tâm sắt đá của cả một
dân tộc trong thời kỳ hội nhập và phát triển
Nhận xét
Đăng nhận xét