1. Hoàn cảnh ra đời
Cách mạng tháng Tám
năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước CHXHCN
Việt Nam) ra đời chưa được bao lâu thì thực dân Pháp quay lại xâm lược nước
ta một lần nữa. Với tinh thần “.... thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, quân và dân ta đã anh dũng
chiến đấu chống lại quân xâm lược. Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến
quyết liệt chống thực dân Pháp, nhiều đồng bào, chiến sỹ đã ngã xuống, hy
sinh một phần xương máu trên các chiến trường. Với truyền thống đạo lý
“uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”, Đảng, Chính phủ, Bác Hồ và
nhân dân ta đã dành tất cả tình thương yêu cho các chiến sĩ và đồng bào đã vì độc
lập, tự do của Tổ quốc mà bị thương hoặc hy sinh.
Đầu năm 1946, Hội
giúp binh sĩ bị nạn ra đời ở Thuận Hóa (Bình Trị Thiên), rồi đến Hà Nội và một
số địa phương khác... Sau đó ít lâu được đổi thành Hội giúp binh sĩ bị thương. Ở
Trung ương có Tổng Hội và Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu là Chủ tịch danh dự của
Tổng Hội.
Ngày 28-5-1946, Hội
giúp binh sĩ bị nạn tổ chức một cuộc nói chuyện quan trọng tại Nhà hát Lớn Hà Nội
để kêu gọi mọi người gia nhập Hội và hăng hái giúp đỡ các chiến sỹ bị thương,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến dự.
Ngày 17-11-1946,
cũng tại Nhà hát Lớn Hà Nội, Hội Liên Hiệp Quốc dân Việt Nam đã tổ chức lễ xung
phong “Mùa đông binh sỹ”, mở đầu cuộc vận động “Mùa đông binh sỹ” trong cả nước
để giúp chiến sỹ trong mùa đông giá rét. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến dự buổi lễ
và Người đã cởi chiếc áo đang mặc để tặng binh sỹ.
Khi cuộc kháng chiến
toàn quốc bùng nổ, ngày 19-12-1946, theo Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã nhất tề đứng dậy kháng chiến với tinh
thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Số người bị thương và hy sinh trong
chiến đấu tăng lên, đời sống của chiến sỹ, nhất là những chiến sỹ bị thương gặp
nhiều khó khăn, thiếu thốn.
Trước tình hình
trên, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều quyết định với những chính sách
quan trọng về công tác thương binh, liệt sỹ, góp phần ổn định đời sống vật chất
và tinh thần cho thương binh, gia đình liệt sỹ.
Ngày 16-2-1947, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chính thức ký Sắc lệnh số 20/SL, quy định chế độ hưu bổng,
thương tật và tiền tuất tử sĩ. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên khẳng định vị
trí quan trọng của công tác thương binh, liệt sỹ đối với cuộc kháng chiến và sự
quan tâm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đến thương binh, bệnh binh và gia đình
liệt sỹ.
Tháng 6-1947, đại
biểu của Tổng bộ Việt Minh, Trung ương Hội phụ nữ Cứu quốc, Trung ương Đoàn
thanh niên Cứu quốc, Cục Chính trị quân đội quốc gia Việt Nam, Nha Thông tin
Tuyên truyền và một số địa phương đã họp tại Đại Từ (Bắc Thái) để bàn về công
tác thương binh, liệt sỹ và thực hiện Chỉ thị của Hồ Chủ Tịch chọn một ngày nào đó làm ngày Thương binh Liệt sỹ. Tại cuộc
họp này các đại biểu đã nhất trí chọn ngày 27 tháng 7 là ngày “Thương binh
toàn quốc”. Từ đó hàng năm cứ vào dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều gửi thư,
quà thăm hỏi, động viên, nhắc nhở mọi người phải biết ơn và hết lòng giúp đỡ
thương binh, gia đình liệt sỹ. Đặc biệt, từ sau Chiến thắng Điện Biên Phủ,
Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh càng quan tâm hơn đến công tác thương binh,
liệt sỹ.
Từ tháng 7 năm
1955, Đảng và Nhà nước ta quyết định đổi “Ngày Thương binh toàn quốc”
thành “Ngày Thương binh, Liệt sỹ” để ghi nhận những hy sinh lớn lao của đồng
bào, chiến sĩ cả nước cho chiến thắng vẻ vang của toàn dân tộc.
Sau ngày giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc, theo Chỉ thị 223/CT-TW ngày 8-7-1975 của Ban Bí
thư Trung ương Đảng, từ năm 1975, ngày 27 tháng 7 hằng năm chính thức trở
thành “Ngày Thương binh, Liệt sỹ” của cả nước.
Mỗi năm cứ đến
“Ngày Thương binh, Liệt sỹ” nhất là vào dịp kỷ niệm năm tròn, toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta lại tổ chức nhiều hoạt động thiết thực,
đầy tình nghĩa chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ, người có công với cách
mạng.
2. Ý nghĩa
Ngày Thương binh
Liệt sỹ có ý nghĩa lịch sử, chính trị, xã hội sâu sắc, đó là:
- Truyền thống “hiếu
nghĩa bác ái”, lòng quý trọng và biết ơn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đối
với những người đã hi sinh, cống hiến vì độc lập, tự do và thống nhất của Tổ
quốc, vì hạnh phúc của nhân dân; qua đó phát huy tinh thần yêu nước, củng cố và
bồi đắp niềm tin vào sự nghiệp cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa
chọn.
- Tôn vinh các anh
hùng, liệt sỹ, thương binh và người có công; khẳng định sự cống
hiến, hy sinh của họ cho độc lập, tự do của dân tộc, cho hạnh phúc
của nhân dân là vô giá. Việc chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình
liệt sỹ và người có công là vinh dự, là trách nhiệm của các cấp, các
ngành, tổ chức chính trị - xã hội và của mọi người, của thế hệ hôm
nay và mai sau.
- Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta trân trọng đánh giá cao những cống hiến, hy sinh to lớn
của đồng bào, chiến sỹ đối với Tổ quốc; đồng thời cũng luôn chú
trọng giáo dục ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ công dân và lòng biết
ơn sâu sắc của các tầng lớp nhân dân, của các thế hệ cách mạng đối
với thương binh, liệt sỹ và người có công với cách mạng.
Nhận xét
Đăng nhận xét