Ngoài vùng biển rộng, nước ta còn có
khoảng 2.773 đảo ven bờ và hai quần đảo xa bờ (Hoàng Sa, Trường Sa), nhiều khu
vực địa lý quan trọng ở ven biển. Lợi thế “mặt tiền” hướng biển, thuận lợi cho
giao thương và hội nhập kinh tế quốc tế nhưng cũng xung yếu về mặt an ninh quốc
phòng.
Từ tiềm năng...
Biển Việt Nam là một bộ phận của biển
Đông (khoảng 29% diện tích biển Đông), rộng gấp 3 lần diện tích lãnh thổ đất liền,
bao gồm các vùng biển trong phạm vi 200 hải lý, thềm lục địa và 2 quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Dáng hình phần đất liền của Việt Nam hẹp chiều ngang và
trải dài theo hướng á kinh tuyến (không nơi nào cách biển >500 km). Cho nên,
toàn bộ lãnh thổ đất liền của Việt Nam đều chịu ảnh hưởng của các “yếu tố biển”,
bao gồm cả yếu tố tự nhiên và phát triển.
Biển là môi trường sống của các loài
sinh vật thủy sinh, các loài chim nước, chim di cư, các loài động thực vật trên
các đảo, thậm chí là môi trường sống lý tưởng của con người. Các vùng biển của
Việt Nam có khoảng 12.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái
(HST) điển hình, thuộc 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau với hơn 2.000
loài cá, 230 loài tôm biển và trên 1.300 loài trên hải đảo. Biển Việt Nam được
xem là một trong 10 trung tâm đa dạng sinh học biển trên thế giới.
Yếu tố biển rất quan trọng trong cơ cấu
kinh tế lãnh thổ và kinh tế biển, chiếm vị trí trọng yếu trong chiến lược phát
triển kinh tế quốc dân trong thời gian tới. Với khoảng 5,3 triệu tấn cá biển và
khả năng khai thác bền vững là 2,3 triệu tấn/năm, kinh tế thủy sản đóng góp lớn
cho thị phần xuất khẩu của nước ta.
Trong vùng biển Việt Nam chứa khoảng 35
loại hình khoáng sản với quy mô trữ lượng khai thác khác nhau từ nhỏ đến lớn,
thuộc các nhóm: nhiên liệu, kim loại, vật liệu xây dựng, đá quý và bán quý,
khoáng sản lỏng. Tiềm năng dầu khí phân bố trong 6 bồn trầm tích và hoạt động
khai thác dầu khí được duy trì tại 11 mỏ ở thềm lục địa phía Nam. Dọc ven biển
đã phát hiện được các sa khoáng khoáng vật nặng của các nguyên tố hiếm quý như
titan, ziacon và xeri. Sản lượng khai thác inmênit (quặng titan) từ các sa
khoáng ven biển cả nước là 220.000 tấn/năm và ziacôn 1.500 tấn/năm. Gần đây còn
phát hiện được ở vùng bờ Nam Trung Bộ các sa khoáng nói trên với trữ lượng có
thể đứng đầu thế giới. Đây là tiềm năng khai thác các nguyên tố hiếm - nguyên
liệu rất quan trọng cho ngành công nghiệp quốc phòng và vũ trụ.Một sốmỏ cát vật
liệu xây dựng dưới đáy biển ở Quảng Ninh và Hải Phòng với trữ lượng chừng trên
100 tỷ tấn.Cát thuỷ tinh nổi tiếng là mỏ Vân Hải (trữ lượng 7 tỷ tấn), Vĩnh Thực
(20.000 tấn) và một dải cát thạch anh ngầm dưới đáy biển Quảng Ninh (gần 9 tỷ tấn).
Tiềm năng tài nguyên nước biển cũng rất
lớn, bản thân nước biển là một hóa chất tổng hợp có thể chắt lọc ra phần lớn
các nguyên tố có mặt trong Bảng tuần hoàn Mendeleev và còn được khai thác để sản
xuất nước ngọt trong tương lai.Ở nước ta, nước biển thường được sử dụng cho các
mục đích khác nhau; trước hết, để sảnxuất muối - một lĩnh vực kinh tế biển khá
đặc thù.Hiện nay, làm muối ở Việt Nam không chỉ phục vụ cho nhu cầu sinhhoạt,
mà còn cho các ngành công nghiệp và y học.Ngoài ra, nước biển để nuôi trồng thủy
sản, để phát triển du lịch nghỉ dưỡng và chữa bệnh. Thêm vào đó, các dạng năng
lượng biển tiềm năng cần chú ý khai thác là: băng cháy đã phát hiện triển vọng,
năng lượng thủy triều ở khu vực ven bờ Quảng Ninh - Hải Phòng, năng lượng sóng
và dòng chảy ở miền Trung và năng lượng hạt nhân nước nặng (H2O2) từ nước biển.
Lợi thế về cảng biển luôn được Nhà nước
ta đặc biệt quan tâm chú trọng phát triển. Bờ biển dài và khúc khuỷu, cứ 20 km
bờ biển có một cửa sông lớn (114 cửa sông) và khoảng52 vịnh nước sâu ven bờ miền
Trung (vũng vịnh, đầm phá chiếm 60% chiều dài đường bờ biển), hơn 100 vị trí có
thể xây dựng các cảng biển lớn. Giao thông đường biển có lợi thế gần tuyến đường
hàng hải quốc tế và khu vực.
Biển là tiền đề và là nền tảng cho việc
phát triển lâu dài một số ngành kinh tế biển như: du lịch, thuỷ sản, hàng hải,
khai khoáng và y dược,…Không gian du lịch biển tập trung chủ yếu ở vùng ven biển
và các đảo ven bờ, nơi tập trung nhiều di sản cấp toàn cầu và quốc gia với văn
hóa biển độc đáo.
... đến thách thức
Bên cạnh vai trò to lớn mà biển đem lại,
biển nước ta cũng đối mặt với nhiều thách thức. Trước hết là chất lượng nước biển
diễn biến theo chiều hướng xấu, ngày càng nhiều chất thải không qua xử lý từ đất
liền đổ vào biển; rác thải biển, đảo trở thành vấn đề nan giải; ô nhiễm nhận
chìm có xu hướng tăng mạnh. Ngoài ô nhiễm biển, suy thoái các hệ sinh thái, nước
ta còn đối mặt với tác động hiện hữu của biến đổi khí hậu và biến đổi đại
dương, thiên tai và tai biến môi trường (sự cố tràn dầu, xói lở bờ biển, bồi tụ
vùng cửa sông,…). Sự cố, thảm họa môi trường biển ngày càng gia tăng và biển bị
đầu độc do khai thác theo cách hủy diệt của con người bằng mìn và hóa chất, thừa
chất thải hữu cơ, khai thác cát biển, đổ thải bất hợp pháp,... Đặc biệt, gần
đây Trung Quốc đã mở rộng, tôn tạo các bãi cạn rạn san hô ở quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa của Việt Nam thành đảo nhân tạo,… khiến cho môi trường rạn san hô ở
đây bị phá hủy vĩnh viễn, làm tê liệt chức năng sinh thái vốn có của nó, nguồn
lợi thủy sản suy thoái đến mức khó có thể phục hồi và nghề cá khu vực có nguy
cơ “đổ vỡ”.
Biến đổi khí hậu và biến đổi đại dương
trở thành thách thức toàn cầu, lớn nhất trong thế kỷ XI. Theo Ngân hàng thế giới
(WB), nước biển dâng lên 5m thì Việt Nam mất 16% diện tích đất đai, đe dọa 35%
dân số và 35% tổng sản phẩm quốc nội; các vùng đất thấp ven biển, các đảo san
hô và hàng loạt hệ sinh thái, cơ sở hạ tầng bị phá hủy vì ngập dưới nước biển.
Ngoài ra, nước ta còn chịu nhiều rủi ro thiên tai trên biển và các hiện tượng
thời tiết cực đoan và hậu quả từ biến đổi khí hậu, như: bão, tố, nước dâng
trong bão,...
Đứng trước những thách thức lớn đó, việc
phát triển kinh tế phải gắn với bảo vệ môi trường: không để biển trở thành
“thiên đường” của các dự án gây ô nhiễm. Tất cả hoạt động khai thác, sử dụng biển
đều cần không gian biển riêng, gây mâuthuẫn lợi ích và xung đột không gian
trong cùng một vùng biển.Vì vậy, phải phân vùng sử dụng không gian biển hợp lý,
quản lý tổng hợp biển dựa vào hệ sinh thái, tiến tới thống nhất quản lý nhà nước
về biển, đảo.
Một thách thức lớn nữa mà chúng ta
không thể không nhắc tới đó chính là thách thức về chủ quyền biển, đảo. Đặc biệt
là phải đối mặt với việc Trung Quốc theo đuổi ý đồ “độc chiếm Biển Đông” cùng với
yêu sách phi lý về “đường chín đoạn”, triển khai sáng kiến “Nhất đới, nhất lộ”
với “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XI” và “Chuỗi ngọc trai” trên biển.
“Con đường tơ lụa” trên biển không chỉ
là mối đe dọa về an ninh và chủ quyền lãnh thổ đối với các nước láng giềng, nhất
là các nước đang có tranh chấp biển, đảo với Trung Quốc ở Biển Đông mà còn đối
với tự do, an ninh, an toàn hàng hải trên biển một khi Trung Quốc thiết lập một
“luật chơi” riêng.
Bảo vệ không gian sinh tồn của dân tộc.
Biển được xem là không gian sinh tồn của
dân tộc ta, đó là không gian phát triển và an ninh. Để bảo vệ, đầu tiên chúng
ta cần cải thiện “sức khỏe” của biển thông qua việc phát triển và phục hồi các
thảm thực vật dưới biển (thực vật phù du, rong tảo, cỏ biển) và ven biển (rừng
ngập mặn) để tăng khả năng thu-giữ CO2, giảm thiểu biến đổi khí hậu. Chú trọng
phát triển kinh tế biển xanh, tăng trưởng xanh một cách bền vững.
Rà soát lại chiến lược và kế hoạch phát
triển biển, đảo phù hợp với tinh thần của Chương trình Nghị sự 21 về định hướng
phát triển bền vững quốc gia, của Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, của Mục
tiêu phát triển bền vững biển đến 2030 (Mục tiêu 14) với việc tính đến các kịch
bản rủi ro thiên tai và nhân tai, tính đến yêu cầu hội nhập quốc tế.
Tăng cường tính liên ngành trong phát
triển và quản lý kinh tế biển vì lợi ích chung và lâu dài qua các công cụ chính
sách, quy hoạch lồng ghép. Phối hợp thành lập và quản lý các khu bảo tồn ven biển
và biển, đảo để bảo toàn chức năng sinh thái của vùng biển và nguồn vốn tự
nhiên biển cho phát triển biển bền vững. Tăng cường nâng cao nhận thức về kinh
tế biển bền vững, giảm thiểu các hành vi gây hại đối với môi trường và tài
nguyên biển, cũng như cách ứng xử, đối phó với thiên tai, kiểm soát tốt nguồn
thải, làm sạch bãi biển. Phát triển du lịch sinh thái với quy mô lớn hơn, lợi
ích nhiều hơn và bền vững hơn.
Để duy trì “nồi cơm Thạch Sanh” cho các
cộng đồng địa phương, cần xúc tiến quản lý biển theo cách tiếp cận tổng hợp nhằm
giảm thiểu tác động từ các hoạt động của các ngành kinh tế khác đến chất lượng
sản phẩm; và từ chính hoạt động kinh tế đến môi trường và tài nguyên biển. Quản
lý thống nhất về mặt nhà nước đối với biển, đảo.
Tiếp tục khẳng định chủ quyền của Việt
Nam và củng cố bằng chứng đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong giải
quyết các vấn đề tranh chấp biển, cần kiên định, linh hoạt, không để xảy ra
xung đột quân sự; đẩy mạnh phát triển kinh tế biển để bảo đảm thực thi chủ quyền
dân sự trên các vùng biển của Tổ quốc; gắn kinh tế với quốc phòng và thực hiện
dân sự hóa.
Thực hành tư tưởng Hồ Chí Minh: “biển bạc
của ta do nhân dân ta làm chủ” và “dĩ bất biến, ứng vạn biến”; trong đó, yếu tố
bất biến là vấn đề chủ quyền của Việt Nam đối với các vùng biển và hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, vạn biến là để bảo vệ chủ quyền cần sử dùng nhiều biện
pháp linh hoạt, “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”, góp phần xây dựng một Biển Đông
hòa bình và thịnh vượng./.
Nhận xét
Đăng nhận xét